Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Mice

Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Mice

Các doanh nghiệp du lịch kết nối, trao đổi các giải pháp để phát triển du lịch MICE - Ảnh: VGP

Các doanh nghiệp du lịch kết nối, trao đổi các giải pháp để phát triển du lịch MICE - Ảnh: VGP

Cần có chiến lược cho phát triển du lịch MICE

Ông Vũ Thế Bình cho rằng, những khách đi dự MICE thường không khó khăn, họ có đủ điều kiện đi dự sự kiện tức là họ có nhu cầu khám phá, thưởng thức rất nhiều dịch vụ khác. Nếu không khai thác được điều đó thì hiệu quả du lịch MICE sẽ giảm đi rất nhiều.

Vì vậy, phát triển du lịch MICE phải đồng bộ với các dịch vụ, phát triển các kỹ năng để thu hút được khách và khai thác được nhiều nhất có thể. Nhiều nước phải phát triển từ từ, phải đào tạo nhân lực, bổ sung các dịch vụ khác trước khi làm du lịch MICE. Sau dịch COVID-19, chúng ta có thể phát triển đồng bộ các lĩnh vực cùng một lúc để bảo đảm khai thác nhanh nhất du lịch MICE ở Việt Nam.

Cũng theo ông Vũ Thế Bình, nhân lực là vấn đề khó khăn nhất của ngành du lịch không chỉ đối với MICE mà còn ở tất cả các lĩnh vực khác. Vì vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực, bổ túc nghề nghiệp có thể đi tắt.

Để phát triển một cách bền vững thị trường khách du lịch quốc tế thì phải làm đồng bộ rất nhiều lĩnh vực như xây dựng sản phẩm du lịch mới, nâng cao chất lượng dịch vụ của những người làm dịch vụ, đồng thời tăng cường xúc tiến du lịch. Những vấn đề này hiện đang còn yếu ở Việt Nam.

Ông Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển du lịch cũng cho rằng, MICE là lĩnh vực bứt phá, dẫn dắt sự phát triển của du lịch Việt Nam. Các thành phố lớn như: Hà Nội, TPHC, Đà Nẵng, Nha Trang,… là những địa phương có tiềm năng để phát triển du lịch MICE. Bên cạnh đó, các địa phương miền núi đều có thể trở thành điểm đến du lịch MICE hấp dẫn.

Tuy nhiên, chúng ta chưa có chiến lược riêng về phát triển loại hình du lịch này. Việt Nam gần như chưa có các thống kê, nghiên cứu chuyên sâu về các loại hình du lịch, về thị trường du lịch MICE.

Để phát triển du lịch MICE, theo ông Nguyễn Anh Tuấn, cần đầu tư hạ tầng như trung tâm tổ chức sự kiện hội thảo hội nghị tầm cỡ quốc tế, quy mô lớn; chất lượng sản phẩm dịch vụ đòi hỏi ngày càng cao, đẳng cấp, cần nắm bắt thị trường để có các sản phẩm phù hợp; đầu tư nguồn nhân lực chuyên nghiệp; đẩy mạnh liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ, giữa Chính phủ, các bộ, ngành với doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp du lịch trao đổi liên kết tại MICE EXPO 2023. Ảnh: VGP/Diệp Anh

Bài 1: Du lịch MICE: Tiềm năng còn 'bỏ ngỏ'

Thị trường du lịch MICE của Việt Nam còn rất lớn nhưng đang bị "bỏ ngỏ" và chưa khai thác được hết tiềm năng. Đã đến lúc cần đặt đúng vai trò loại hình, sản phẩm du lịch MICE trong định hướng kinh doanh cho du lịch Việt Nam để đạt được những mục tiêu lớn.

Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm năm 2030 đã khẳng định tiếp tục phát triển sản phẩm du lịch đô thị, du lịch hội nghị, hội thảo, sự kiện (MICE); du lịch kết hợp mua sắm, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, giải trí, đặc biệt là giải trí về đêm.

Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng khẳng định giai đoạn 2025-2030: Hoàn thiện phát triển và định vị toàn bộ hệ thống sản phẩm du lịch MICE, du lịch đô thị gắn với các hoạt động giải trí, trình diễn nghệ thuật truyền thống và đương đại.

Như vậy, đã đến lúc cần đặt đúng vai trò loại hình, sản phẩm du lịch MICE trong định hướng kinh doanh cho du lịch Việt Nam để đạt được những mục tiêu lớn.

Nhiều điều kiện, tiềm năng để đưa Việt Nam thành điểm đến du lịch MICE hấp dẫn

Theo nhận định của các chuyên gia, du lịch MICE là loại hình có thể thu hút được lượng khách lớn, có khả năng chi tiêu cao, cũng như lưu trú dài. Đặc biệt, du lịch MICE thường diễn ra quanh năm, mang lại lợi ích ổn định ngay cả những mùa thấp điểm. Vì thế MICE được xem là loại hình du lịch cao cấp, là định hướng chiến lược ưu tiên hàng đầu trong việc phát triển, mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu của các đơn vị kinh doanh du lịch và là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tính thời vụ cho hoạt động du lịch của các địa phương. Đây là lợi thế để các địa phương tận dụng khai thác, phát triển thị trường du lịch. Ngoài lợi ích cho ngành du lịch, du lịch MICE còn tác động đến các ngành kinh tế khác và mở ra cơ hội, triển vọng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Hiện nay, ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức, du khách chọn cách vừa đi du lịch nghỉ ngơi vừa kết hợp với việc gặp gỡ đối tác, tìm kiếm thị trường và phát triển kinh doanh. Đó là hình thức du lịch MICE, hoạt động du lịch kết hợp với hội thảo, hội nghị, khen thưởng và sự kiện đang được nhiều công ty, tổ chức lựa chọn. Các công ty thường tổ chức hoạt động này dành cho nhân viên, đối tác và khách hàng. Đây không phải là xu hướng mới đối với thế giới nhưng đối với Việt Nam du lịch MICE đang tiếp cận nhiều hơn với khách hàng trong và ngoài nước.

Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Ninh Bình, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, Bình Thuận,… là những địa phương có tiềm năng để phát triển du lịch MICE và nhiều địa phương khác nữa nếu có kế hoạch đầu tư bài bản. Nhiều thành phố của Việt Nam đã có kinh nghiệm tổ chức rất nhiều hội nghị, hội thảo, diễn đàn lớn với quy mô và tầm cỡ quốc tế. Các điều kiện, tiềm năng đều có thể biến Việt Nam thành điểm đến du lịch MICE hấp dẫn.

Đơn cử như Hà Nội, theo đánh giá của các chuyên gia, Thủ đô với vị thế là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, là mảnh đất ngàn năm văn hiến với nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, nhiều điểm tham quan, di tích, danh lam thắng cảnh nổi tiếng, các khu nghỉ dưỡng cao cấp phát triển được nhiều loại hình du lịch văn hóa, làng nghề, sinh thái nghỉ dưỡng, cộng đồng, trải nghiệm. Việc sở hữu nhiều dòng sản phẩm là điều kiện lý tưởng để Thủ đô phát triển du lịch MICE, thu hút du khách đến tổ chức sự kiện, trải nghiệm và trở thành thế mạnh của du lịch Thủ đô.

Hà Nội từng tổ chức, đón nhiều đoàn khách quốc tế với số lượng lớn đến lưu trú dài ngày; nhiều hội nghị, sự kiện quốc tế lớn đã diễn ra tại Thủ đô như: Hội nghị cấp cao APEC, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Triều Tiên, Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 (SEA Games 31)... Việc liên tục là địa phương được lựa chọn làm địa điểm tổ chức các sự kiện hội nghị quốc tế quy mô lớn cho thấy Hà Nội có thể phát triển dòng sản phẩm du lịch MICE, trở thành thế mạnh của du lịch Thủ đô.

Đà Nẵng cũng là thành phố có đầy đủ các yếu tố cần thiết để đáp ứng nhu cầu về du lịch MICE, như cơ sở vật chất hiện đại, giá thành dịch vụ phù hợp, giao thông thuận tiện và đặc biệt thành phố có các chính sách tư vấn, hỗ trợ và chào đón dòng khách này.

Năm 2024, Sở Du lịch Đà Nẵng tiếp tục tham mưu UBND thành phố Đà Nẵng thống nhất triển khai Chương trình xúc tiến thu hút khách du lịch MICE đến Đà Nẵng. Đây cũng là nỗ lực để Đà Nẵng phục hồi ngành du lịch với kỳ vọng định vị Đà Nẵng là điểm đến hàng đầu về du lịch MICE trong khu vực Đông Nam Á.

Chương trình xúc tiến thu hút khách du lịch MICE đến Đà Nẵng năm 2024 sẽ được thành phố Đà Nẵng áp dụng cho cả đoàn khách MICE nội địa và quốc tế gồm các hoạt động như: Đón tiếp, chào mừng, tặng quà lưu niệm địa phương, hỗ trợ truyền thông và tư vấn tổ chức sự kiện MICE, hỗ trợ đoàn tiền trạm cũng như vinh danh các đơn vị đưa khách đến Đà Nẵng. Đặc biệt trong năm 2024, đối với các đoàn từ 500 khách, thành phố sẽ mở rộng nội dung hỗ trợ đoàn tiền trạm, khảo sát tổ chức sự kiện với 1 lần/1 đoàn (1 đoàn không quá 3 người và 3 ngày tại thành phố Đà Nẵng).

Thành phố Hồ Chí Minh vừa qua cũng được vinh danh "Điểm đến du lịch MICE hàng đầu châu Á" tại Giải thưởng Du lịch MICE thế giới năm 2023, đánh dấu năm thứ tư liên tiếp thành phố nhận được danh hiệu quý giá này. Giải thưởng là sự công nhận sức hút của Thành phố Hồ Chí Minh như một điểm đến hàng đầu cho ngành công nghiệp du lịch MICE.

Theo Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố với vai trò đô thị hạt nhân, cực tăng trưởng vùng, có hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông kết nối ngày càng đồng bộ, đa dạng cơ sở lưu trú, phong phú điểm tham quan, được nhiều đoàn du khách du lịch hội nghị, hội thảo, sự kiện lựa chọn.

Du lịch MICE là một trong những sản phẩm chiến lược của Thành phố. Nơi đây có hạ tầng giao thông, cơ sở vật chất đủ tầm cỡ để tổ chức các hội nghị, hội chợ, tour du lịch MICE quy mô hàng nghìn người. Đến nay, toàn Thành phố có gần 3.230 cơ sở lưu trú du lịch; trong đó có gần 200 khách sạn đã được xếp hạng từ 1-5 sao sẵn sàng phục vụ các đoàn khách theo các phân khúc khác nhau.

Trong 7 tháng năm 2024, doanh thu từ dịch vụ lữ hành của Thành phố Hồ Chí Minh ước đạt 23.853 tỷ đồng, tăng gần 66,%; doanh thu từ lưu trú và ăn uống đạt 74.888 tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2023. Kết quả này có sự đóng góp của nhiều đoàn du khách thuộc dòng du lịch MICE.

Du lịch MICE cũng là một trong 8 nhóm sản phẩm được Bà Rịa-Vũng Tàu đẩy mạnh phát triển, tập trung chủ yếu ở thành phố Vũng Tàu, huyện Xuyên Mộc… với nhiều khu nghỉ dưỡng phức hợp hiện đại, khu du lịch cao cấp, sức chứa hàng nghìn người. Hiện tỉnh đang có 1.360 cơ sở lưu trú với trên 22.500 phòng; trong đó 76 khách sạn được xếp hạng từ 1-5 sao, bảo đảm đáp ứng nhu cầu cho nhiều đối tượng du khách cùng một thời điểm.

Vũng Tàu đã nhiều lần được vinh danh là Thành phố du lịch sạch ASEAN trong khuôn khổ Diễn đàn Du lịch Đông Nam Á. Cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ du lịch tại thành phố biển này ngày càng được nâng cao, phù hợp định hướng phát triển đưa Vũng Tàu trở thành trung tâm du lịch chất lượng cao, đẳng cấp quốc tế. Các sản phẩm du lịch đặc trưng là du lịch nghỉ dưỡng; MICE; du lịch văn hóa, sinh thái, thu hút khoảng 6,5 triệu lượt du khách trong và ngoài nước mỗi năm.

Là vùng đất địa linh, nhân kiệt có truyền thống, lịch sử văn hóa lâu đời. Không chỉ được tạo hóa ưu ái, ban tặng nhiều cảnh quan thiên nhiên phong phú, độc đáo và hấp dẫn, Ninh Bình còn có nhiều di tích lịch sử - văn hóa đặc biệt quan trọng, đánh dấu những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc Việt Nam cùng nhiều di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc với các lễ hội dân gian, nghề thủ công và nghệ thuật truyền thống độc đáo, ẩm thực phong phú,…

Hiện toàn tỉnh Ninh Bình có hơn 700 cơ sở lưu trú, với trên 8.000 phòng nghỉ. Đặc biệt, đã có khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao thu hút đa dạng nguồn khách du lịch MICE. Ngoài các hội trường có quy mô lớn tại các khách sạn, Ninh Bình còn có Trung tâm hội nghị tỉnh, Trung tâm hội nghị quốc tế chùa Bái Đính đáp ứng được yêu cầu tổ chức các sự kiện có quy mô vài nghìn người. Cơ sở hạ tầng du lịch được đầu tư, nâng cấp đồng bộ, kết nối thuận tiện, nhiều khu, điểm du lịch lớn đã cơ bản hoàn thiện đi vào hoạt động phục vụ một lượng lớn khách đến Ninh Bình như: Khu du lịch sinh thái Tràng An, Khu du lịch tâm linh chùa Bái Đính, điểm du lịch Vườn chim Thung Nham, điểm du lịch Hang Múa, điểm du lịch động Thiên Hà, phố cổ Hoa Lư... Đây là tiềm năng, lợi thế để Ninh Bình khẳng định thế mạnh và nâng tầm trong việc phát triển du lịch MICE.

Việc Việt Nam thu hút một lượng lớn du khách tham gia loại hình du lịch MICE đã được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Tháng 3/2024, tại Lễ trao giải thưởng MICE thế giới lần thứ 4 tổ chức tại CHLB Đức, Việt Nam một lần nữa được vinh danh ở nhiều hạng mục quan trọng như "Điểm đến du lịch MICE hàng đầu châu Á", "Điểm đến nghỉ dưỡng dành cho doanh nghiệp tốt nhất châu Á".

Không chỉ các thành phố mới được vinh danh điểm đến du lịch MICE mà nhiều doanh nghiệp cũng nhận được giải thương danh giá. Cụ thể , Vietnam Airlines được vinh danh là "Hãng hàng không MICE hàng đầu châu Á"; Vietravel được vinh danh "Đơn vị tổ chức du lịch MICE hàng đầu châu Á".

Sắp tới đây, MICE EXPO 2024 sẽ được tổ chức nhằm đẩy mạnh sự hợp tác giữa người bán và người mua, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong kinh doanh du lịch MICE.

Với quy mô 500 doanh nghiệp, 800 đại biểu tham dự, MICE EXPO 2024 là cơ hội cho các doanh nghiệp giới thiệu, quảng bá sản phẩm và cùng nhau nhận định xu thế, xây dựng kế hoạch hành động cho thời gian tới cũng như định vị thương hiệu du lịch MICE Việt Nam trên bản đồ du lịch MICE thế giới.

Trao đổi với Báo Điện tử Chính phủ, Tổng Thư ký Hiệp hội Du lịch Việt Nam Vũ Quốc Trí cho biết: "Thị trường du lịch MICE ở Việt Nam rất lớn và tiềm năng. Chúng ta mới đang ở giai đoạn đầu của phát triển du lịch MICE, nên vẫn còn những bỡ ngỡ và cần phải học hỏi các nước đã có kinh nghiệm phát triển loại hình du lịch này. Tuy nhiên, chúng ta phải bắt đầu chuyên nghiệp ngay từ đầu để hướng đến mục tiêu phát triển hiệu quả, bền vững".

Vẫn còn những "điểm nghẽn" cần tháo gỡ

Mặc dù được nhìn nhận có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch MICE, nhưng đến nay, loại hình du lịch này vẫn chưa phải là thế mạnh của Việt Nam, đặc biệt so với các nước trong khu vực, Việt Nam còn những "điểm nghẽn" cần tháo gỡ.

Vẫn còn thiếu những chương trình phát triển du lịch MICE bài bản, chuyên nghiệp; xây dựng các sản phẩm đặc thù; liên kết các địa phương, các đơn vị du lịch; đẩy mạnh xúc tiến quốc tế…

Một số địa phương sở hữu nhiều khách sạn 5 sao vẫn thiếu những trung tâm tổ chức sự kiện với đầy đủ dịch vụ về lưu trú, ăn uống, tổ chức hội họp có quy mô lớn, có thể phục vụ hàng nghìn người. Hay như sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chủ yếu là các điểm tham quan di tích lịch sử, văn hóa, thiếu hoạt động trải nghiệm phong phú, nên chưa thu hút được dòng khách du lịch MICE…

Ông Phùng Quang Thắng, Phó Chủ tịch Liên Chi hội Lữ hành Việt Nam cho rằng, muốn phát triển du lịch MICE một cách tổng thể trước tiên cần phát triển hạ tầng quy mô lớn, hiện đại, đồng bộ, để từ đó dẫn dắt các dịch vụ liên quan khác.

Ông Thắng đưa ví dụ, để tìm địa điểm có quy mô lớn tổ chức Hội chợ Du lịch quốc tế VITM Hà Nội hằng năm rất khó và hầu như không tìm được nơi nào khác ngoài Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt-Xô. Dù thời gian qua, với hạ tầng hiện có, Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn như APEC, ASEM, SEA Games… nhưng để du lịch MICE bứt phá cần có sự đầu tư quy mô lớn hơn, bài bản hơn.

Bên cạnh đó, nguồn nhân lực phục vụ du lịch MICE còn hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng, công tác quảng bá du lịch MICE của Việt Nam ra thị trường quốc tế còn yếu, nhỏ lẻ.

Bài 2: Định vị Việt Nam là điểm đến của du lịch MICE

Khái quát về phát triển du lịch bền vững

Phát triển được xem là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội… Phát triển là xu hướng tự nhiên tất yếu của thế giới vật chất nói chung, của xã hội loài người nói riêng. Có khá nhiều quan điểm khác nhau về phát triển bền vững, trong nghiên cứu này, phát triển bền vững được định nghĩa là sự phát triển hài hòa về cả 3 mặt kinh tế - xã hội – môi trường để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để phát triển kinh tế xã hội mai sau, không làm giảm chất lượng cuộc sống của thế hệ trong tương lai.

Khái niệm phát triển du lịch bền vững xuất hiên vào khoảng những năm 1990 và được nhiều quốc gia và các hiệp hội du lịch trên thế giới ủng hộ. Dưới góc độ kinh tế, du lịch bền vững được hiểu là quá trình hoạt động du lịch mà ở đó có thể duy trì được mức độ tăng trưởng liên tục của các chỉ tiêu kinh tế trong một khoảng thời gian nhiều năm, hoặc trong một giai đoạn không nhất định. Tuy nhiên, quan niệm này chịu nhiều sự chỉ trích, phê phán của các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà nghiên cứu về môi trường và tài nguyên.

Mức độ đóng góp của ngành dịch vụ trong cơ cấu GRDP của tỉnh Nghệ An qua các năm (theo giá so sánh 2010) cho thấy, năm 2015 khu vực dịch vụ chiếm 37,1%, chỉ đứng sau khu vực nông – lâm – thủy sản, riêng du lịch chiếm 2,3%. Năm 2018, sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế tỉnh theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã làm thay đổi vị trí đóng góp của các khu vực trong cơ cấu GRDP của Tỉnh.

Đến nay, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất và đầy đủ về “du lịch bền vững” nhưng phát triển bền vững du lịch có thể hiểu là một khái niệm bao trùm thể hiện sự phát triển của hoạt động du lịch trong một chặng đường, giai đoạn của quá trình phát triển. Sự phát triển này luôn đặt ra mục tiêu đảm bảo việc khai thác, sử dụng các nguồn lực địa phương có sự liên thông an toàn, việc phát triển của thế hệ hiện tại không làm phương hại đến các thể hệ tương lai; Đồng thời, đảm bảo cân đối giữa 3 mục tiêu: kinh tế, môi trường và xã hội trong phát triển du lịch.

Thực trạng phát triển du lịch tỉnh Nghệ An

Mức độ đóng góp của ngành dịch vụ trong cơ cấu GRDP của tỉnh Nghệ An qua các năm (theo giá so sánh 2010) cho thấy, năm 2015 khu vực dịch vụ chiếm 37,1%, chỉ đứng sau khu vực nông – lâm – thủy sản, riêng du lịch chiếm 2,3%. Năm 2018, sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế tỉnh theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã làm thay đổi vị trí đóng góp của các khu vực trong cơ cấu GRDP của Nghệ An. Cụ thể, công nghiệp – xây dựng chiếm 30,4%, đứng đầu là khu vực dịch vụ chiếm 44,03%, riêng ngành Du lịch chiếm 3,8%, tiếp theo là khu vực nông – lâm – thủy sản chiếm 20,75%. Năm 2019, công nghiệp – xây dựng chiếm 31,65%, khu vực dịch vụ chiếm 48,43%, riêng ngành du lịch chiếm 4,5%, tiếp theo là khu vực nông – lâm – thủy sản chiếm 19,92% (Niên giám thống kê Nghệ An 2018). Khu vực dịch vụ đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh khi chiếm tới 48,43 % tổng GRDP năm 2019, riêng ngành du lịch chiếm tới 4,5% (UBND tỉnh Nghệ An- Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Nghệ An 2019).

Du lịch cũng đã tạo ra và thu hút nhiều lao động vào làm việc, góp phần cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho người dân nói chung. GRDP/người của tỉnh tăng từ 32,93 triệu đồng/người năm 2017 lên 36,64 triệu đồng/người năm 2018 và 43,08 triệu đồng/ người năm 2019. (UBND tỉnh Nghệ An- Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Nghệ An 2017,2018,2019).

Nghệ An đã thu hút được một số lượng khách khá lớn đến thăm quan, du lịch. Nhìn chung, nguồn khách du lịch tăng dần qua các năm. Năm 2015, tỉnh Nghệ An đón 3,429 triệu lượt khách du lịch, năm 2016 lượng khách du lịch bị sụt giảm mạnh do ảnh hưởng sự cố môi trường biển các tỉnh miền Trung. Tuy nhiên, từ năm 2017 đến 2019, lượng khách tới Nghệ An ngày càng tăng, năm 2019 đón 6,53 triệu lượt khách, trong đó có 4,7 triệu lượt khách lưu trú, tăng 9,5% so với năm 2018.

Số lượng khách quốc tế: Khách quốc tế đến với Nghệ An có xu hướng tăng và tăng đều qua các năm. Nếu như năm 2015, số khách quốc tế chỉ dừng lại ở mức 101 nghìn lượt thì đến năm 2019, con số đó là 145 nghìn lượt, tăng gấp 1,43 lần; năm 2016 do ảnh hưởng môi trường nên lượng khách quốc tế tới nghệ An giảm còn 72 nghìn lượt khách. Nhìn chung, khách du lịch quốc tế đến với Nghệ An còn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu nguồn khách, chưa có sự thay đổi vượt bậc trong giai đoạn 2015 – 2019, thường chỉ ở mức 2 – 3% năm.

Số lượng khách nội địa: Trong khi số lượt khách quốc tế chỉ dừng lại ở mức 109 nghìn lượt năm 2017 thì khách nội địa đến với Nghệ An vượt 5,8 triệu triệu lượt năm 2010, khách nội địa tăng liên tục qua các năm. Nhìn chung, khách du lịch đến với Nghệ An chủ yếu là khách nội địa, luôn chiếm trên 97% so với tổng nguồn khách. Như vậy, cơ cấu giữa du khách quốc tế và du khách nội địa đến Nghệ An còn chênh lệch rõ nét, điều này đặt ra yêu cầu cho việc đầu tư, thiết kế những sản phẩm du lịch ấn tượng, phù hợp với sở thích của du khách nước ngoài nhằm thu hút lượng khách quốc tế đến với tỉnh.

Độ dài ngày lưu trú: Độ dài ngày lưu trú của khách nội địa đến với Nghệ An có mức tăng chưa cao, dao động trong khoảng 1,2 – 1,5 ngày. Số lượng khách du lịch nội địa phần lớn vẫn là khách nội tỉnh có cự lý gần, mục đích tham quan chủ yếu là các lễ hội và các di tích lịch sử nên ít sử dụng dịch vụ lưu trú; còn khách du lịch đi theo chương trình du lịch Bắc-Nam do các công ty du lịch tổ chức thì chỉ tham quan các điểm du lịch thuận tiện trên tuyến còn lưu trú có thể dịch chuyển sang địa phương khác trên đường hành trình. Bên cạnh đó, một số điểm du lịch hấp dẫn ở miền Tây Nghệ An thì chưa tổ chức được các dịch vụ du lịch phục vụ yêu cầu của khách dẫn tới độ dài lưu trú còn ngắn.

Trong những năm qua, số cơ sở lưu trú tăng nhanh dựa trên việc cải tạo cơ sở cũ, xây dựng cơ sở mới theo hướng chuyên nghiệp hóa. Sự tăng nhanh được thể hiện ở cả hai mặt: số lượng và chất lượng.

Tổng số cơ sở lưu trú năm 2015 là 245 cơ sở với 15.678 phòng. Năm 2019, cùng với sự gia tăng về nguồn khách du lịch, số cơ sở lưu trú cũng tăng lên 839 cơ sở với 20.054 phòng. Cùng với sự gia tăng về số lượng, chất lượng hệ thống khách sạn, nhà nghỉ cũng được Tỉnh chú trọng đầu tư phát triển. Năm 2019, toàn Tỉnh có 30 khách sạn đạt chuẩn từ 3 sao đến 5 sao.

Như vậy, số lượng và chất lượng khách sạn phục vụ du khách ngày càng tăng. Nhiều khách sạn chất lượng cao đáp ứng nhu cầu du khách quốc tế và trong nước, tiêu biểu như: Sài Gòn – Kim Liên, Mường Thanh, Phương Đông, khách sạn nghỉ dưỡng Bãi Lữ. Tuy nhiên, xét trên tổng thể, số lượng khách sạn 3 – 5 sao vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ, số lượng khách sạn trên 3 sao chỉ chiếm 3,57% tổng số khách sạn của cả tỉnh. Các cơ sở lưu trú tại tỉnh chủ yếu tập trung tại trung tâm du lịch thành phố Vinh và đô thị du lịch thị xã Cửa Lò. Tại đây, nhiều khách sạn được xây dựng với chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu của các đối tượng khách quốc tế sang trọng.

Cùng với sự gia tăng về lượng khách, doanh thu du lịch của Nghệ An cũng đã đạt được mức tăng trưởng đáng ghi nhận. Trong giai đoạn 2015 – 2019, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt khoảng 28,2%.

Năm 2015, doanh thu du lịch đạt 5.208 tỷ đồng, năm 2016 đạt 5.000 tỷ đồng, năm 2017 đạt 6.086 tỷ đồng. Đến năm 2019, doanh thu tăng lên 8.800 tỷ đồng tăng 22% so với năm 2018. Cơ cấu doanh thu du lịch tỉnh Nghệ An ít thay đổi qua các năm. Vấn đề đặt ra đối với du lịch tỉnh Nghệ An là cần tăng cường đầu tư xây dựng mới và nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch; Tiến hành đa dạng hóa các loại hình dịch vụ du lịch, đặc biệt là các dịch vụ có khả năng thu hút khách, tăng khả năng chi tiêu và kéo dài độ lưu trú; Góp phần tạo ra một sản phẩm du lịch hoàn chỉnh, hấp dẫn, tương xứng với tiềm năng đa dạng của tỉnh.

Nghệ An có nhiều tiềm năng phát triển du lịch, tài nguyên du lịch thiên nhiên của Nghệ An rất đa dạng, phong phú với bờ biển dài (82km), nhiều bãi biển đẹp và hấp dẫn du khách như Cửa Lò, Bãi Lữ, Quỳnh Phương, Diễn Thành, Cửa Hiền... có nguồn nước sạch, sóng không lớn, độ sâu thoải, độ mặn thích hợp, ở vị trí thuận lợi về giao thông.; nhiều hang động, thác nước thu hút khách du lịch như Hang Bua, Thẩm Ồm, Thẩm Chàng (huyện Quỳ Châu), thác Khe Kèm (huyện Con Cuông), thác Sao Va, thác Bảy tầng (huyện Quế Phong), đỉnh Puxailaileng, cổng trời Mường Lống (huyện Kỳ Sơn), đảo chè Thanh Chương... Nghệ An có khu dự trữ sinh quyển thế giới nằm ở vùng miền Tây, được UNESCO chính thức công nhận vào năm 2007 và là Khu dự trữ sinh quyển thế giới được công nhận thứ 6 của Việt Nam. Vùng lõi có Vườn Quốc gia Pù Mát, với diện tích phần lớn nằm ở huyện Con Cuông, nơi đây đang là điểm đến của du khách ưa thích khám phá thiên nhiên, đi bộ, chèo thuyền, trải nghiệm văn hoá bản địa của đồng bào các dân tộc thiểu số và homestay.

Nghệ An còn là vùng đất có lịch sử văn hóa lâu đời và truyền thống đấu tranh cách mạng với trên 2.000 di tích lịch sử danh thắng; trong đó có 147 di tích được xếp hạng cấp quốc gia. Đặc biệt có 04 di tích được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt (Khu di tích lịch sử văn hóa Kim Liên, Khu lưu niệm Phan Bội Châu, Di tích cột mốc Km số 0 đường Hồ Chí Minh, Di tích Đình Hoành Sơn). Bên cạnh đó, Nghệ An có 29 lễ hội truyền thống, trong đó có 07 lễ hội được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia, đặc biệt dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại được UNESCO công nhận năm 2014. Hệ thống cơ sở dịch vụ trên địa bàn tỉnh đã và đang được đầu tư theo hướng phát triển đa dạng, từng bước hiện đại, chuyên nghiệp. Đến nay có 882 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó có 03 cơ sở 5 sao, 10 cơ sở 4 sao và tương đương; có 02 sân golf 18 lỗ tại Cửa Lò và Khu sinh thái Mường Thanh Diễn Lâm; có các trung tâm mua sắm hiện đại như Big C, Lotte... Các cơ sở nhà hàng, dịch vụ ăn uống, phố đi bộ, chợ đêm, các khu vui chơi giải trí phát triển mạnh mẽ, đủ khả năng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cho khách du lịch khi đến Nghệ An.

Trong phát triển du lịch ở Nghệ An, đặc biệt có thể kể đến tiềm năng du lịch biển do có bờ biển dài 82 km. Vùng biển Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm của các tuyến giao lưu quốc tế và liên vùng, trên tuyến trục bắc nam và đông tây của miền Trung. Kinh tế biển của tỉnh phát triển chủ yếu trên lĩnh vực nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy sản; du lịch; dịch vụ cảng… Những năm gần đây, kinh tế biển ngày càng khẳng định vai trò, vị thế trong cơ cấu kinh tế chung, đóng góp khoảng 50% GRDP của tỉnh; trong đó, giá trị tăng thêm bình quân đầu người vùng biển và ven biển cao gấp 1,27 lần so với bình quân toàn tỉnh. Nhiều khu du lịch lớn ở các địa phương ven biển (như du lịch biển Cửa Lò, Diễn Thành, biển Quỳnh, Bãi Lữ, Vinpearl Cửa Hội), các cảng nước sâu Cửa Lò, cảng xăng dầu DKC, cảng Vissai Nghi Thiết cũng được xây dựng, đưa vào sử dụng... Công tác quy hoạch, thu hút đầu tư, kết cấu hạ tầng ngày càng được đầu tư hiện đại hơn, đáp ứng yêu cầu liên kết vùng và giao thông cho các địa phương ven biển của tỉnh.

Giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển bền vững du lịch tỉnh Nghệ An

Trên cơ sở thực trạng phát triển ngành du lịch tỉnh nghệ An giai đoạn vừa qua, để đẩy mạnh phát triển du lịch tỉnh Nghệ An giai đoạn 2020-2025, tác giả đề xuất một số giải pháp cần tập trung thực hiện gồm:

Một là, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển du lịch.

Bổ sung, điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Nghệ An đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 phù hợp đặc điểm tài nguyên du lịch của tỉnh trong giai đoạn mới. Tập trung xây dựng và triển khai quy hoạch chi tiết các khu du lịch ven biển, đảo Ngư, các khu du lịch hồ vực Mồng, hồ Tràng đen, hồ Khe Gỗ, hồ sông Sào, hồ Xuân Dương, hồ Bản Mồng, vườn quốc gia Pù Mát..., gắn với thực hiện Đề án phát triển du lịch biển đảo, phát triển lịch miền Tây Nghệ An.

Có cơ chế chính sách, tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư và phát triền du lịch; Lựa chọn để tập trung đầu tư, từng bước hình thành một số khu, điểm, cơ sở du lịch chất lượng cao, hiện đại có tính đột phá để thu hút du khách trong nước và quốc tế; Đẩy nhanh tiến độ xây dựng cảng nước sâu Cửa Lò, nâng cấp sân bay Vinh mở thêm các tuyến bay trong nước và quốc tế ưu tiên hỗ trợ các dự án phát triển các loại hình du lịch mới (du lịch tàu biển, du lịch trên sông Lam, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch chữa bệnh, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng…).

Hai là, đẩy mạnh xã hội hóa và tăng cường đầu tư xây dựng.

Nghệ An cần bảo tồn và tôn tạo khu di tích Kim Liên, khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Lê Hồng Phong, khu tưởng niệm liệt sĩ Xô Viết Nghệ Tĩnh, đền thờ những người thân của Bác Hồ, khu di tích lịch sử Truông Bồn, khu lưu niệm cụ Phan Bội Châu, đền Cỡn, đền ông Hoàng Mười, đền Quả Sơn, đền Bạch Mã, chùa Đại Tuệ, Văn miếu Vinh, di chỉ văn hóa làng Vạc… Xây dựng Vinh - Cửa Lò - Nam Đàn trở thành cụm du lịch gắn với du lịch quốc gia, quốc tế; Cửa Lò thành đô thị du lịch có môi trường xanh, sạch, dịch vụ đa dạng, hấp dẫn; Vinh trở thành trung tâm lưu trú và trung chuyển khách du lịch. Bên cạnh đó, cần lập hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét đệ trình UNESCO công nhận hát ví dặm Nghệ Tĩnh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Ba là, tăng cường liên kết, khai thác có hiệu quả các tuyến du lịch hiện có và mở các tuyến du lịch mới.

Tập trung khai thác các tuyến du lịch hiện có và phát triển mới các tuyến du lịch nội tỉnh để phát huy thế mạnh tiềm năng du lịch; Ưu tiên phát triển các tuyến du lịch đường bộ liên tỉnh, liên vùng, nhất là các tuyến du lịch từ Vinh tới Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Lào, Thái Lan, Malaysia, Singapore; tăng cường liên kết tổ chức các tour caraval; Từng bước khai thông tuyến du lịch hàng không để tổ chức đón khách du lịch nước thứ 3 đến từ Lào, Trung Quốc; Chuẩn bị lộ trình khai thác tuyến du lịch quốc tế qua cửa khẩu Thanh Thuỷ khi có đủ điều kiện.

1. Chương trình hành động số 55-CTr/TU về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2017 – 2030.

2. Cục thống kê tỉnh Nghệ An (2018, 2019, 2020), Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An năm 2018, 2019, 2020;. Nguyễn Thị Minh Phượng, Cao Thị Thanh Vân, Phan Thị Hà, (2018);

3. Phát triển du lịch cộng đồng tại miền Tây tỉnh Nghệ An, Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương số 529, tháng 1/2018.

* ThS. Lê Văn Viễn – Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.

** Bài đăng Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 12/2021.