Trong bối cảnh lượng nước sinh ra ở phần lãnh thổ Việt Nam chỉ chiếm khoảng 37% (310 – 315 tỷ m3/năm), nhưng sử dụng còn lãng phí, thách thức về an ninh nguồn nước đang là vấn đề lớn, theo đánh giá của Chính phủ.
Trong bối cảnh lượng nước sinh ra ở phần lãnh thổ Việt Nam chỉ chiếm khoảng 37% (310 – 315 tỷ m3/năm), nhưng sử dụng còn lãng phí, thách thức về an ninh nguồn nước đang là vấn đề lớn, theo đánh giá của Chính phủ.
1. Tài nguyên du lịch bao gồm những gì?
Tài nguyên du lịch bao gồm rất nhiều yếu tố từ tự nhiên, kinh tế, xã hội. Tài nguyên du lịch dùng để chỉ chung cảnh quan thiên nhiên, các di tích văn hóa, lịch sử… hoặc các công trình văn hóa khác có thể khai thác du lịch.
Bên cạnh đó, hiểu về tài nguyên du lịch, người ta còn có thể hiểu là tất cả những gì có thể khai thác để phát triển du lịch, nó là mọi thứ xung quanh chúng ta, bất cứ điều gì cũng có thể là tài nguyên du lịch.
2. Phân loại tài nguyên du lịch
Để có thể tận dụng và phát triển tối đa các tài nguyên du lịch thì việc phân loại là vô cùng cần thiết. Việc phân loại giúp tìm ra đặc điểm chung và riêng của mỗi loại, từ đó có hướng đi riêng. việc phân loại cũng chỉ ra điểm mạnh để đầu tư và những điểm hạn chế để khắc phục. Tài nguyên du lịch được chia thành 3 loại:
Ngoài ra, theo góc độ nghiên cứu của các nhà khoa học, tài nguyên du lịch có thể chia thành 2 dạng là tài nguyên du lịch hiện thực và tiềm năng còn chưa khai phá.
3. Đặc điểm của tài nguyên du lịch
Như đã nói ở trên, muốn sử dụng và phát triển được, những người làm du lịch cần phải hiểu rõ về tài nguyên du lịch. Mà điều đầu tiên để hiểu được tài nguyên du lịch đó là nắm được đặc điểm của nó. Tài nguyên du lịch, ngay từ tên gọi thôi đã có thể nêu bật lên đặc điểm giao thoa giữa tài nguyên nói chung và cả ngành du lịch nói riêng.
Một số loại tài nguyên du lịch được khai thác bởi nhiều ngành kinh tế xã hội khác nhau. Với mỗi ngành kinh tế khác nhau, tài nguyên du lịch sẽ được khai thác ở những khía cạnh khác nhau để đem lại lợi nhuận.
Tài nguyên du lịch không mang tính bất biến mà luôn mang sự biến đổi theo thời gian, không gian, tình hình kinh tế xã hội… Đặc biệt, khi tiến hành khai thác, dưới bàn tay của con người, sự thay đổi của tài nguyên còn trở nên rõ ràng hơn.
Để khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch cần nhiều yếu tố tác động. Đây hoàn toàn là vấn đề cơ bản, vì dù phát triển du lịch hay khai thác tài nguyên nói riêng đều cần sự tham gia phối hợp của nhiều bên. Các yếu tố như kinh tế chính trị xã hội cũng góp phần tác động không nhỏ.
Tài nguyên du lịch vô cùng phong phú, trên nhiều khía cạnh, không gian, loại hình,... Thậm chí, qua sự sáng tạo của con người tài nguyên du lịch còn đa dạng hơn bởi sự kết hợp nhiều loại khác nhau.
Tài nguyên du lịch khác với các loại tài nguyên khác đó là có thể tái tạo được. Sự tái tạo giúp tài nguyên du lịch phát triển và có thể thích ứng với điều kiện xã hội tốt hơn
Tài nguyên du lịch thuộc quyền quản lý của nhà nước nhưng lại có tính sở hữu chung ai cũng có thể tận dụng những tài nguyên này để tiến hành khai thác, làm kinh tế
Muốn khai thác tài nguyên du lịch hiệu quả cần chú ý đến yếu tố địa lý. Sự thuận tiện hàng đầu trong khai thác tài nguyên du lịch chính là khoảng cách địa lý, sự thuận tiện về giao thông…
Với một số loại tài nguyên du lịch, việc khai thác sẽ mang tính thời vụ bởi tính chất mùa vụ của tài nguyên. Ví dụ như những tài nguyên về mặt khí hậu, sự biến đổi của thiên nhiên,...
Khai thác tài nguyên du lịch còn dựa vào trình độ của người làm du lịch. Khai thác được nhiều, gia tăng lợi ích từ tài nguyên như thế nào còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tư duy của những người làm du lịch.
Tài nguyên du lịch mang tính lịch sử. Sự phát triển, suy tàn, tồn tại, hồi sinh,... của tài nguyên du lịch luôn song hành cùng quá trình phát triển của con người. Cụ thể đó là sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của tài nguyên du lịch lên tầm cao mới.
Như vậy, để khai thác tốt tài nguyên du lịch, việc tìm hiểu về nó là vô cùng quan trọng. Nắm bắt được những đặc điểm của tài nguyên du lịch là bước đầu để đầu tư vào ngành du lịch.
Những cánh rừng ngập mặn nguyên sinh hầu như không còn. Ảnh: ITN
Theo Báo cáo Hiện trạng Môi trường biển đảo quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, các nhà khoa học ước tính, cỏ biển trên toàn vùng biển nước ta từ Quảng Ninh đến Hà Tiên đã mất khoảng 40 - 60%; rừng ngập mặn mất đến 70% và khoảng 11% các rạn san hô đã bị phá hủy hoàn toàn, không có khả năng tự phục hồi. Những cánh rừng ngập mặn nguyên sinh hầu như không còn. Sự suy giảm trầm trọng diện tích rừng ngập mặn đã kéo theo sự suy giảm đa dạng sinh học biển, đặc biệt mất bãi sinh sản và nơi cư ngụ của các loài thủy sinh.
Thảm cỏ biển đơn loài Halophila ovalis tại Đầm Tre. Ảnh: Hoàng Xuân Bền
Hệ sinh thái thảm cỏ biển là một trong những hệ sinh thái biển quan trọng, nhưng hiện nay đang đứng trước nguy cơ bị tổn thương và suy thoái. Sự suy thoái hệ sinh thái thảm cỏ biển thể hiện trên các khía cạnh như giảm số lượng cá thể và số loài, thu hẹp diện tích phân bố, ô nhiễm, thoái hóa môi trường sống, giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi kinh tế của các loài quý hiểm. Thảm cỏ biển phân bố từ Bắc vào Nam và ven các đảo, ở độ sâu từ 0 - 20 m, hiện chỉ còn khoảng trên 5.583 ha. Một số khu vực, thảm cỏ biển hầu như không có cơ hội để phục hồi tự nhiên do có quá nhiều tác động từ hoạt động du lịch, nuôi trồng thuỷ sản ở khu vực này (Cát Bà, Hạ Long, Quảng Nam...).
Trong vòng hơn 20 năm qua, Việt Nam đã mất 12% số rạn san hô, 48% số rạn san hô khác đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Diện tích các rạn san hô bị mất, tập trung chủ yếu ở các vùng có dân cư sinh sống như Vịnh Hạ Long, các tỉnh ven biển miền Trung và một số đảo có người sinh sống thuộc quần đảo Trường Sa, nhiều nơi độ phủ giảm trên 30%.
Rạn san hô dưới đáy biển Hòn Mun thuộc vịnh Nha Trang bị chết hàng loạt - Ảnh: X.N
Sự suy giảm diện tích và những tổn thương của nhiều rạn san hô làm suy giảm đa dạng sinh học, sinh thái và chất lượng môi trường biển, thiệt hại cho ngành du lịch, thủy sản và sinh kế của các cộng đồng vùng ven biển. Hiện nay mặc dù chúng ta đã nghiên cứu trồng và phục hồi, tái tạo thành công san hô ngoài tự nhiên, nhưng diện tích được phục hồi còn rất thấp.
Vì tình trạng khai thác và đánh bắt cá quá mức, đến nay các nhà nghiên cứu đã ghi nhận khoảng 100 loài sinh vật biển nước ta có nguy cơ bị đe dọa. Các loài này là những loài quý hiếm và đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam, Danh mục đỏ IUCN để yêu cầu phải có biện pháp bảo vệ (bao gồm: 37 loài cá biển, 6 loài san hô, 5 loài da gai, 4 loài tôm rồng, 1 loài sam, 21 loài ốc, 6 loài hai mảnh vỏ, 3 loài mực).
Kết quả nghiên cứu của FAO và một số tổ chức quốc tế khác trong những năm gần đây đều chỉ ra rằng khoảng hơn 80% lượng cá trên các vùng biển ven bờ và ngoài khơi của Việt Nam đã bị khai thác, trong đó có đến 25% lượng cá bị khai thác quá mức hoặc khai thác cạn kiệt, sản lượng đánh bắt giảm đáng kể, nhiều loài sinh vật biển khác đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
Tham khảo: Báo cáo Hiện trạng Môi trường biển đảo quốc gia.