Công nghệ len lỏi vào mọi ngóc ngách của đời sống, từ những vật dụng đơn giản nhất trong nhà đến những hệ thống phức tạp trong các ngành công nghiệp. Nó tác động mạnh mẽ đến mọi khía cạnh của đời sống con người, từ cách thức chúng ta làm việc, học tập, giải trí đến cách thức chúng ta giao tiếp, kết nối và tương tác với nhau. Cùng SBLAW đi sâu tìm hiểu công nghệ là gì? Vai trò của công nghệ trong đời sống con người.
Công nghệ len lỏi vào mọi ngóc ngách của đời sống, từ những vật dụng đơn giản nhất trong nhà đến những hệ thống phức tạp trong các ngành công nghiệp. Nó tác động mạnh mẽ đến mọi khía cạnh của đời sống con người, từ cách thức chúng ta làm việc, học tập, giải trí đến cách thức chúng ta giao tiếp, kết nối và tương tác với nhau. Cùng SBLAW đi sâu tìm hiểu công nghệ là gì? Vai trò của công nghệ trong đời sống con người.
Công nghệ lạnh đông là một trong những yếu tố quan trọng giúp bảo quản thủy sản sau khi thu hoạch, đảm bảo giữ được chất lượng và giá trị dinh dưỡng trong suốt quá trình vận chuyển và tiêu thụ.
Có thể nói, mục đích khi áp dụng công nghệ lạnh đông thủy sản, đó chính là kéo dài thời gian bảo quản. Đây cũng là mục đích chính của quá trình làm đông lạnh thủy sản. Nước trong thủy sản chiếm khoảng 75% trọng lượng. Khi hạ nhiệt độ xuống dưới 0°C, nước trong thủy sản sẽ hóa thành đá, làm chậm lại các hoạt động của vi sinh vật và enzyme, từ đó ngăn chặn sự ươn hỏng và phân hủy của sản phẩm. Nhờ vậy, thủy sản đông lạnh có thể được bảo quản trong thời gian dài, từ vài tháng đến vài năm, mà không bị ảnh hưởng đến chất lượng.
Lạnh đông thủy sản có thể vận chuyển đi xa mà không sự thực phẩm bị hư, thối. Ảnh: thermoking.intechgroup.vn
Tiếp theo, lạnh đông giúp giữ nguyên hương vị, cấu trúc, giá trị dinh dưỡng và độ tươi ngon của thủy sản gần như nguyên vẹn. Sau khi được rã đông, thủy sản đông lạnh vẫn giữ được chất lượng không khác gì so với thủy sản tươi sống.
Bên cạnh đó, thủy sản đông lạnh có thể dễ dàng vận chuyển và lưu trữ trong điều kiện nhiệt độ thấp. Nhờ vậy, thủy sản có thể được vận chuyển đến các thị trường xa xôi mà không bị hư hỏng, giúp mở rộng thị trường tiêu thụ.
Cuối cùng, do nhu cầu tiêu dùng thủy sản tươi sống ngày càng tăng cao, tuy nhiên nguồn cung không thể đáp ứng đầy đủ. Lạnh đông giúp tạo ra nguồn cung dồi dào, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là trong các thời điểm khan hiếm nguồn hàng tươi sống.
Công nghệ lạnh đông đóng vai trò vô cùng quan trọng trong ngành công nghiệp thủy sản, mang lại nhiều lợi ích thiết thực như sau:
- Lạnh đông giúp vi sinh vật, vi khuẩn và các enzym hoạt động chậm lại, từ đó kéo dài thời gian bảo quản thủy sản tươi sống lên nhiều tháng, thậm chí cả năm. Nhờ vậy, sản phẩm có thể được vận chuyển đến các thị trường xa xôi mà vẫn giữ được chất lượng tốt nhất.
- Ngăn ngừa sự phân hủy và hư hỏng của thủy sản, giảm thiểu hao hụt đáng kể trong quá trình bảo quản và vận chuyển.
- Tiêu diệt vi khuẩn gây hại, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng.
- Đa dạng hóa các sản phẩm thủy sản, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của thị trường. Ví dụ: tôm đông lạnh, cá phi lê đông lạnh, mực đông lạnh,...
- Nhờ khả năng bảo quản dài hạn, thủy sản đông lạnh có thể được xuất khẩu đến các thị trường quốc tế, giúp tăng kim ngạch xuất khẩu và thu nhập cho ngành thủy sản.
- Lạnh đông giúp bảo quản sản phẩm lâu dài, tạo điều kiện cho việc đánh bắt và nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh mẽ hơn. Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
Ngoài ra, công nghệ lạnh đông còn mang lại một số lợi ích khác như:
- Giúp điều tiết thị trường thủy sản, tránh tình trạng dư thừa hoặc thiếu hụt sản phẩm.
- Giảm thiểu rác thải thực phẩm do bảo quản thủy sản tốt hơn.
- Góp phần bảo vệ môi trường bằng cách giảm thiểu việc sử dụng hóa chất bảo quản.
Nhìn chung, công nghệ lạnh đông đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao giá trị, chất lượng và hiệu quả kinh tế của ngành thủy sản. Việc ứng dụng và phát triển các công nghệ lạnh đông tiên tiến sẽ góp phần gia tăng lợi thế cạnh tranh cho ngành thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong mọi khía cạnh của đời sống con người. Nó giúp chúng ta sống tốt đẹp, thành công hơn và phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ công nghệ, con người có thể:
Tuy nhiên, công nghệ cũng có thể tiềm ẩn một số rủi ro như:
Trên đây, SBLAW đã trình bày chi tiết công nghệ là gì và vai trò của công nghệ là gì? Công nghệ là một công cụ mạnh mẽ giúp con người tăng năng suất lao động, cải thiện chất lượng cuộc sống, phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết các vấn đề toàn cầu. Tuy nhiên, công nghệ cũng tiềm ẩn những rủi ro như mất việc làm, bất bình đẳng và lạm dụng. Do vậy, con người cần sử dụng công nghệ một cách thông minh và có trách nhiệm để mang lại lợi ích cho bản thân, cộng đồng và xã hội.
1. Cách mạng công nghệ thông tin, cách mạng công nghiệp 4.0 và chính sách của Nhà nước Việt Nam
Cách mạng công nghệ thông tin (CNTT), truyền thông, Internet và cách mạng công nghiệp lần thứ tư - cách mạng công nghiệp 4.0 là những nhân tố đặc biệt quan trọng, quy định sự phát triển, vận hành xã hội trong thế kỷ 21. Nhà nước, pháp luật không những tất yếu phải chịu sự tác động, áp lực, thách thức vô cùng mạnh mẽ từ các cuộc cách mạng công nghiệp, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mà còn phải xác định đầy đủ hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối với con người và xã hội trong bối cảnh mới có tính chất toàn cầu.
Đặc trưng nổi bật của cách mạng công nghiệp 4.0 là sự kết hợp công nghiệp trong các lĩnh vực vật lý, số hóa, sinh học và vốn, sự hợp nhất về mặt công nghệ, nhờ đó xóa bỏ ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học, đem lại sự kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể. Những tiến bộ đột phá khoa học như công nghệ nano, in 3D, công nghệ sinh học phân tử, di truyền, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật kết nối (Internet of Things - IoT) sẽ giúp cho việc mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đem lại muôn vàn tiện ích, lợi ích cho con người, chính phủ và doanh nghiệp. Chỉ riêng trong lĩnh vực đầu tư, công nghệ - đặc biệt là công nghệ số và Internet - là mảng đầu tư hấp dẫn và đầy tiềm năng nhất của các nhà đầu tư trong thời gian tới. Theo các nhà khoa học, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những khả năng hoàn toàn mới, có tác động sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới, đến mọi quốc gia, chính phủ, doanh nghiệp và người dân khắp toàn cầu, cũng như làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc và sản xuất[1].
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ tác động mạnh mẽ, toàn diện đến đời sống quốc gia, con người, Nhà nước và pháp luật, đến mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế theo cả chiều hướng tích cực, thuận lợi và những áp lực, thách thức vô cùng to lớn.
Nhận thức được xu thế và tầm quan trọng của các cuộc cách mạng CNTT, truyền thông, cách mạng công nghiệp 4.0, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật về hoạt động ứng dụng CNTT nhằm đưa Việt Nam sớm trở thành nước phát triển về CNTT. Tiêu biểu là các văn bản pháp luật như: Nghị quyết số 36a/NQ/CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử; Nghị quyết số 34/NQ-CP ngày 07/4/2017 của Chính phủ về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2018. Chính sách của Nhà nước là Việt Nam cần chủ động có định hướng, giải pháp thiết thực để nắm bắt cơ hội, giảm thiểu các tác động tiêu cực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, áp dụng các biện pháp về phát triển hạ tầng CNTT; cải thiện môi trường cạnh tranh kinh doanh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, đô thị thông minh; xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động đến chúng ta, nó không chờ đợi chúng ta mà đang tiến lên như vũ bão, chúng ta không thể bỏ lỡ con tàu này[2].
2.Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong xã hội công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ số
Ở bất kỳ một mô hình tổ chức xã hội nào, Nhà nước, pháp luật cũng đều có vai trò to lớn, chi phối mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đồng thời Nhà nước, pháp luật - như một tất yếu - cũng chịu sự tác động của hàng loạt các yếu tố. Trong xã hội CNTT, công nghệ số, truyền thông và Internet, vai trò và áp lực đặt ra là vô cùng to lớn, mạnh mẽ đối với Nhà nước, pháp luật cũng như toàn xã hội.
Xã hội CNTT, công nghệ số, ứng dụng Internet vào cuộc sống đã và đang tác động mạnh mẽ, toàn diện đến tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, xã hội, chính sách, pháp luật, chức năng nhà nước, phương thức quản lý, điều hành xã hội, giải quyết, ứng phó với các vấn đề xã hội; mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân; dịch vụ pháp luật, ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật, nghiên cứu, phổ biến, giáo dục, đào tạo pháp luật.
Trong xã hội CNTT, công nghệ số, Nhà nước không chỉ một chiều là ứng dụng những thành tựu của công nghệ, mà còn có vai trò, trách nhiệm to lớn trong việc xây dựng và phát triển xã hội CNTT, xã hội và nền kinh tế tri thức, kinh tế số. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải giải quyết một vấn đề then chốt, rộng lớn hơn đó là việc xác định vai trò của Nhà nước trong sự hình thành xã hội thông tin chứ không chỉ là chức năng của Nhà nước trong mối quan hệ với CNTT, truyền thông, công nghệ số. Đối với các nhà nước hiện đại, cần nhận thức và xác định nhiệm vụ xây dựng xã hội thông tin như là cơ sở của sự phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa và có chính sách quốc gia về xây dựng xã hội thông tin, áp dụng công nghệ số.
Nhà nước có trách nhiệm quan trọng trong việc hoạch định chính sách quốc gia về xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin đầu tiên của xã hội CNTT, xã hội tri thức. Nếu không có chính sách và những quy định hợp lý, không có sự điều hành của Chính phủ đối với kết cấu hạ tầng thông tin thì xã hội thông tin, xã hội tri thức không thể hình thành được.
Nhà nước với vai trò kiến tạo và phát triển, cần phải bảo đảm và thúc đẩy để người dân được tự do, an toàn, phát huy được tiềm năng của mình trong điều kiện xã hội CNTT, cách mạng công nghiệp 4.0. Điều này đặt ra phải đổi mới cách tư duy trong xây dựng chính sách, pháp luật, cách thức quản lý, điều hành xã hội theo quan niệm truyền thống trước đây. Chính sách của Nhà nước Việt Nam là khẩn trương hoàn thiện cơ chế, thể chế, chính sách, pháp luật theo kịp kinh tế số, công nghiệp thông minh, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, trong đó, CNTT và hạ tầng thông tin đóng vai trò hạ tầng của hạ tầng, phát triển nhanh nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu kinh tế số, xây dựng, phát triển nguồn nhân lực làm chủ hệ tri thức Việt số hóa, chủ động nắm bắt, khai thác có hiệu quả các cơ hội to lớn của cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại, phát triển doanh nghiệp số được xác định là nhiệm vụ trung tâm, lâu dài để phát triển kinh tế số ở Việt Nam[3].
Cách thức quản lý xã hội của Nhà nước theo đó phải được thay đổi mạnh mẽ, không chỉ là đảm bảo thượng tôn Hiến pháp, pháp luật mà còn đảm bảo những điều kiện tốt nhất, an toàn nhất cho sự vận hành của xã hội thông tin, ứng dụng công nghệ số cùng những ứng dụng tiến bộ khác của công nghệ, kỹ thuật. Các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, viên chức, công chức cần đổi mới tư duy, phương thức quản lý, hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ kỹ thuật cao để phục vụ hiệu quả, nhanh chóng, tiết kiệm, đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, bảo đảm minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Nhà nước đồng thời vừa phải nỗ lực nghiên cứu, xây dựng chính sách, pháp luật về phát triển, sử dụng CNTT, truyền thông, xây dựng khung khổ pháp lý cho xã hội thông tin, vừa phải bảo vệ, bảo đảm sự an toàn cho các cá nhân, tổ chức và cho chính Nhà nước trong bối cảnh xã hội thông tin toàn cầu.
Phạm vi điều chỉnh, cách thức, phương pháp, mức độ điều chỉnh và cả kỹ thuật của điều chỉnh pháp luật buộc phải có nhiều thay đổi mới cho phù hợp, thích ứng tốt nhất trong bối cảnh mới của công nghệ, kỹ thuật và của xu hướng chính trị - pháp lý đương đại. Đơn cử, sẽ có những lĩnh vực pháp luật chỉ điều chỉnh về nguyên tắc, khung khổ pháp lý, có lĩnh vực lại cần ở mức độ cụ thể cao hơn, công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật cũng sẽ phải thay đổi để phù hợp. Phương pháp loại trừ sẽ phải thay thế cho phương pháp điều chỉnh truyền thống là liệt kê những điều được phép v.v.. Không chỉ đối với pháp luật nội dung, mà còn đối với cả lĩnh vực pháp luật thủ tục, quy trình cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của cách mạng CNTT, công nghệ số.
Mục đích của xây dựng và phát triển xã hội thông tin là đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, đảm bảo năng lực cạnh tranh của quốc gia, phát triển tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, hoàn thiện hệ thống quản lý quốc gia trên cơ sở áp dụng những thành tựu tiến bộ về CNTT và truyền thông.
Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước cần phải được nhìn nhận trong bối cảnh mới, trong đó có cả sự đầu tư thỏa đáng và chấp nhận có thể gánh chịu sự rủi ro về tài chính. Nhà nước phải có năng lực nhận biết, đánh giá đúng các diễn biến của cuộc cách mạng CNTT trên toàn cầu, xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật, các tiêu chuẩn đảm bảo sự kết nối hợp tác, cạnh tranh, thúc đẩy áp dụng các công nghệ mới và bảo vệ quyền con người, quyền lợi của người tiêu dùng.
Nhà nước trong xã hội CNTT, kỷ nguyên kỹ thuật số cần phải có những năng lực mới bên cạnh những năng lực truyền thống, đặc biệt là năng lực thiết lập sự cân bằng giữa cạnh tranh và điều chỉnh trật tự, an toàn cho mọi hoạt động xã hội trong đó có hoạt động xây dựng, áp dụng, phát triển CNTT, truyền thông, kỹ thuật số.
Nhà nước phải có năng lực xây dựng, tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật để bảo vệ cuộc sống, tự do, sự phát triển và an toàn của con người khỏi các mối đe dọa trong thời hiện đại. Đồng thời trong xã hội CNTT, công nghệ số và cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển như vũ bão, vai trò và trách nhiệm của Nhà nước ngày càng gia tăng để bảo vệ nền tảng đạo đức, các quyền và lợi ích của trẻ em và những nhóm người dễ bị tổn thương khác.
Xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử
Để thực hiện được các chính sách quốc gia trong xã hội CNTT cần có các công cụ đảm bảo, trong đó, công cụ chính yếu là xây dựng Chính phủ điện tử. Cốt lõi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vẫn là CNTT. Do vậy, đối với nước ta, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, cấp bách là xây dựng, phát triển chính quyền điện tử ở trung ương và các địa phương.
Chính phủ điện tử là hình thức mới về tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước được thực hiện bởi sự áp dụng rộng rãi CNTT và truyền thông nhằm đảm bảo sự thuận lợi cho các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội trong các giao dịch pháp lý, thụ hưởng các loại hình dịch vụ công, giảm chi phí xã hội.
Mục đích và yêu cầu của xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử là để nâng cao chất lượng và sự tiếp cận các dịch vụ nhà nước, áp dụng các tiêu chuẩn phục vụ người dân và các doanh nghiệp, nâng cao tính minh bạch, tính mở về thông tin hoạt động của các cơ quan nhà nước và đảm bảo điều kiện tham gia của người dân, các tổ chức xã hội vào quá trình xây dựng các chính sách, pháp luật, các quyết định hành chính của bộ máy công quyền. Đồng thời, Chính phủ điện tử còn có vai trò to lớn nhằm năng cao chất lượng, hoàn thiện hệ thống cung cấp và phân tích, đánh giá quyết định, đảm bảo sự kiểm soát các kết quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Để thực hiện và vận hành thông suốt, hiệu quả Chính phủ điện tử có nhiều việc phải làm, trong đó có nhiệm vụ xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật về Chính phủ điện tử, về áp dụng CNTT, xây dựng xã hội thông tin. Mục đích, yêu cầu của chính sách, pháp luật về Chính phủ điện tử là để đảm bảo cho mọi người dân, mọi tổ chức được sử dụng các CNTT, truyền thông, tiếp cận bình đẳng về các nguồn thông tin, được tự do và an toàn trong xã hội CNTT. Hai điều kiện nền tảng để thiết lập và vận hành Chính phủ điện tử là: hạ tầng CNTT và truyền thông; hệ thống các văn bản pháp luật, các thủ tục, các quy chuẩn, các cơ sở dữ liệu tích hợp đã được số hóa, các dịch vụ công trực tuyến và khả năng khai thác các dịch vụ trực tuyến (online) của người sử dụng (cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp)[4].
3. Dân chủ, mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân trong xã hội công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ số, chính phủ điện tử, cách mạng công nghiệp 4.0
Xã hội CNTT, truyền thông, công nghệ số, Chính phủ điện tử đã và đang làm thay đổi sâu sắc kiểu/ mô hình quản lý, phục vụ của Nhà nước, sự tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá của con người. Đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề mới đối với dân chủ về nội dung, phạm vi và các hình thức, thiết chế dân chủ, kể cả thiết chế, hình thức dân chủ đại diện đã được hình thành trong thế kỷ 20.
Dân chủ là một trong những điều kiện, đặc trưng, nguyên tắc cốt lõi của Nhà nước pháp quyền. Trong xã hội CNTT, công nghệ số, Chính phủ điện tử, cách mạng công nghiệp 4.0, dân chủ đã có thêm những điều kiện mở rộng cả chiều sâu và chiều rộng trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, Nhà nước và pháp luật. Dân chủ sẽ được mở rộng với sự trợ giúp của CNTT, công nghệ số trên cơ sở các chính sách, pháp luật đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền hiện đại.
Bản thân quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ trong tất cả các lĩnh vực đời sống đã và đang làm thay đổi sâu sắc, cơ bản mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân, xã hội, chuyển dần từ sự bất bình đẳng sang bình đẳng, công bằng, đồng trách nhiệm; từ cách thức điều hành, quản lý bằng mệnh lệnh hành chính áp đặt, đơn phương sang trách nhiệm phục vụ, đối thoại, thương lượng, thu hút sự tham gia, tham vấn, phản biện của người dân, doanh nghiệp và xã hội. Ngày nay, với sự áp dụng CNTT, công nghệ số lại làm gia tăng, sâu sắc, toàn diện hơn, thiết thực hơn quá trình dân chủ, minh bạch, công khai, sự thuận tiện, hiệu quả phục vụ, cung ứng các dịch vụ công của Nhà nước đối với người dân và doanh nghiệp.
Chính phủ điện tử, xã hội CNTT sẽ làm thay đổi mối quan hệ thông tin của người dân, doanh nghiệp và xã hội, sẽ làm mở rộng khả năng bảo vệ, bảo đảm quyền con người bằng con đường tiếp cận với nhiều loại hình thông tin, tăng khả năng con người được tham gia vào quá trình tiếp nhận các quyết định chính sách nhà nước và theo dõi các hoạt động của Nhà nước... tiếp cận thông tin, bảo vệ đời sống riêng tư. Việc áp dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan nhà nước làm cho mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân, Nhà nước và doanh nghiệp ngày càng gần gũi, thân thiện hơn.
Áp dụng khoa học công nghệ vào hoạt động hành chính, dịch vụ công của các cơ quan nhà nước; tạo lập môi trường kinh doanh, sản xuất thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Bằng cách đó sẽ góp phần phải thay đổi nhận thức đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ cơ chế hành chính "mệnh lệnh", "xin - cho" sang nền hành chính "phục vụ"; coi người dân và doanh nghiệp thực sự là khách hàng, là đối tác bình đẳng trong cung cấp dịch vụ công.
4. Thực hiện các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền trong xã hội công nghệ thông tin, công nghệ số, cách mạng công nghiệp 4.0
Trong điều kiện mới vừa có nhiều cơ hội, thuận lợi, lợi ích to lớn vừa có nhiều thách thức, áp lực trong xã hội CNTT, công nghệ số, cách mạng công nghiệp 4.0 thì vấn đề quan trọng đặt ra là càng phải tăng cường việc bảo đảm thực hiện các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền.
CNTT, công nghệ số, các tiến bộ vượt trội của công nghệ đem lại vai trò, tính hữu ích vô cùng to lớn, song chúng không là tất cả, không hoán vị, thay thế được con người. Con người vẫn là yếu tố then chốt, quyết định thành bại, phồn vinh, hạnh phúc về tinh thần và vật chất. Trong xã hội CNTT, công nghệ số, cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi cái căn bản nhất của con người, đó chính là phẩm chất đạo đức nhân văn và tri thức cùng ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội. Nếu thiếu những phẩm chất căn bản đó, con người có thể lợi dụng một cách tinh vi CNTT, công nghệ số, các loại hình công nghệ khác để xâm phạm quyền, lợi ích, đe dọa sự an toàn, hạnh phúc của con người, đồng loại.
Có nhiều nguyên tắc, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền cần phải được thực hiện trong đời sống đầy biến động này. Cần nhận thức đầy đủ và đảm bảo việc thực hiện các nguyên tắc: thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, mọi cá nhân, tổ chức đều bình đẳng trước pháp luật và trước tòa án. Công nghệ, kỹ thuật dù hiện đại đến mấy cũng không phải là tất cả, không thể hoàn toàn ủy thác, phó mặc, tin cậy vào công nghệ, kỹ thuật.
Trong xã hội CNTT, công nghệ số thì vấn đề đặc biệt cần quan tâm thực hiện là hoạt động thông qua các cơ chế hữu hiệu về kiểm soát: kiểm soát quyền lực nhà nước với những nội dung mới, phù hợp, kiểm soát tội phạm, kiểm soát xã hội, kiểm soát ứng dụng CNTT, công nghệ số, công nghệ sinh học, y học... Kiểm soát trong điều kiện xã hội CNTT, công nghệ số, cách mạng 4.0 cần được bổ sung thêm nhiều nội dung và quy mô, phạm vi áp dụng, hình thành nên một kiểu/ mô hình/ cơ chế kiểm soát vừa truyền thống vừa phi truyền thống. Cần phải mở rộng phạm vi và gia tăng hệ thống chề tài đảm bảo tính hữu hiệu của các cơ chế kiểm soát nhà nước và xã hội, công nghệ, kiểm soát quyền lực nhà nước theo chiều dọc, chiều ngang, chiều nội bộ trong các thiết chế nhà nước; kiểm soát pháp luật từ đầu vào đến đầu ra và đặc biệt là kiểm soát hiến pháp hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất.
Vấn đề quan trọng bậc nhất nữa là vai trò, trách nhiệm, năng lực và kỹ năng của Nhà nước về bảo vệ quyền con người trong xã hội CNTT, cách mạng công nghiệp 4.0. Trong xã hội CNTT, cách mạng công nghiệp 4.0, vấn đề Tự do, Phát triển và An toàn của cá nhân, cộng đồng và xã hội ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt và gia tăng sự phức tạp, thách thức đối với Nhà nước, pháp luật. Việc bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do, lợi ích của con người đã có thể nhiều tính mới, không có trong quan niệm và thực tiễn xã hội trước đây. Từ phương diện triết học pháp luật, ở đây hiện hữu một sự mâu thuẫn tất yếu giữa tự do, an toàn cá nhân và an toàn xã hội, thách thức trong việc giải quyết bài toán cân bằng lợi ích của cá nhân, cộng đồng, xã hội và Nhà nước.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học đang mờ đi, vấn đề quyền con người cần được đặc biệt quan tâm bảo vệ, bảo đảm hơn bao giờ hết. Bảo vệ dữ liệu cá nhân trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 lại càng trở nên cấp thiết. Lợi dụng Internet và sự yếu kém của hệ thống pháp luật, của chế độ kiểm soát pháp lý và kỹ thuật, nhiều cá nhân, tổ chức sẽ có những hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia. Thách thức này đặt ra đối với vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và hệ thống pháp luật.
Các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân tuy đã có song vẫn mới chỉ kịp dừng lại ở quan niệm pháp lý truyền thống, chứ chưa đề cập đến yếu tố mới đó là chưa có sự phân biệt giữa môi trường trực tuyến và môi trường ngoại tuyến, môi trường ảo trên Internet trong không gian mạng. Khung pháp lý về bảo vệ thông tin người dùng trên mạng Internet, về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong môi trường Internet và kỹ thuật số hiện nay của nhiều nước trong đó có Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, lỗ hổng, cần phải khẩn trương hoàn thiện.
Nhiệm vụ bảo vệ, bảo đảm quyền con người của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương ngày càng nặng nề, nhiều thách thức đối với Nhà nước và xã hội. Bởi vì trong điều kiện xã hội CNTT, công nghệ số, đời sống của họ sẽ chịu nhiều tác động cả thuận lợi và khó khăn. Nhiệm vụ của Nhà nước là cần thực hiện đồng bộ nhiều chính sách, giải pháp tạo việc làm, thu nhập thông qua đào tạo nghề và hỗ trợ tín dụng cho các nhóm đối tượng xã hội dễ bị tổn thương, cho thanh niên nông thôn, miền núi, nông dân, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số và lao động nữ./.
GS, TS. Hoàng Thị Kim Quế - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
[4] Trương Hồ Hải, Chính phủ điện tử - cầu nối giữa Chính phủ với doanh nghiệp và công dân,
Xuất khẩu thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, đóng góp quan trọng vào GDP và mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước.
Trong quá trình chế biến và bảo quản thủy hải sản, việc duy trì nhiệt độ thích hợp là yếu tố then chốt để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Đây là lý do vì sao công nghệ lạnh đông thủy sản đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu thủy sản.